1. Tổng quan về bệnh bạch hầu
Bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra. Vi khuẩn này có khả năng sinh độc tố, gây tình trạng bệnh nghiêm trọng cho người bị nhiễm.
Những người tiếp xúc với vi khuẩn này đều có thể mắc bệnh bạch hầu. Thông thường, bệnh phổ biến nhất là ở trẻ từ 1 - 10 tuổi, do đã trong cơ thể trả đã hết kháng thể từ mẹ truyền sang.
Hiện nay đã có các loại thuốc đặc trị để điều trị bệnh bạch hầu. Hầu hết, các ca nhiễm không có triệu chứng hoặc diễn biến lâm sàng nhẹ. Tuy nhiên, bạch hầu vẫn có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm, ảnh hưởng đến thận, tim và hệ thần kinh của người mắc bệnh. Tỷ lệ tử vong của người mắc bệnh bạch hầu là 3 %. Tỷ lệ này cao hơn ở trẻ dưới 15 tuổi.
1.1 Bệnh bạch hầu bắt nguồn từ đâu?
Hippocrates - “cha đẻ của nền y học phương Tây” – mô tả bệnh bạch hầu lần đầu tiên vào thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Một số tài liệu y học cũng nhắc đến sự hoành hành của bạch hầu ở Ai Cập cổ đại và Syria. Các đợt bùng phát dịch bệnh nghiêm trọng bắt đầu từ năm 1700. Vào khoảng năm 1883 - 1884, các nhà khoa học đã tìm ra vi khuẩn gây bệnh.
Bắt đầu từ những năm 1900, các nhà khoa học đã thử nghiệm các biện pháp phòng bệnh, cố gắng tạo ra vắc xin và giải độc tố bạch hầu. Thuốc giải độc tố bạch hầu được điều chế và phát triển vào những năm 1920. Tuy nhiên, mãi đến năm 1940, loại thuốc này mới được sử dụng thường xuyên hơn, cùng với vắc xin ho gà và giải độc tố uốn ván.
Thế giới từng ghi nhận nhiều đợt bùng phát dịch bạch hầu trong những năm 1980 tại nhiều quốc gia, bởi lý do gián đoạn tiêm chủng. Năm 1994, ở Nga có hơn 39.000 bệnh nhân mắc bệnh bạch hầu, gần 1.100 trường hợp tử vong.
1.2 Bệnh bạch hầu xuất hiện ở Việt Nam từ bao giờ?
Tại Việt Nam, năm 1983 có gần 3.500 ca mắc bệnh bạch hầu. Năm 1984, vắc xin chứa thành phần bạch hầu được đưa vào chương trình Tiêm chủng mở rộng với 3 liều cơ bản cho đối tượng trẻ dưới 12 tháng. Năm 2011, Việt Nam tiếp tục triển khai tiêm mũi DPT4 (nhóm vắc xin kết hợp chống bạch hầu, ho gà và uốn ván) cho trẻ 18 tháng tuổi. Nhờ đó, tỷ lệ ca bệnh giảm nhanh chóng.
Theo báo cáo của Bộ Y Tế, tỷ lệ mắc bệnh bạch hầu của Việt Nam giảm từ 84,4/100.00 dân vào năm 1984 xuống còn 3,95/100.00 dân vào năm 1985, và 0,04/100.000 dân vào năm 2005 - 2010. Tuy nhiên, từ năm 2020, bệnh bạch hầu có xu hướng gia tăng trở lại. Vào đầu tháng 7 năm 2024, nước ta ghi nhận một trường hợp tử vong do mắc bệnh bạch hầu.
Bạch hầu là bệnh truyền nhiễm
1.3 Vì sao bệnh bạch hầu vẫn còn tồn tại?
Tuy hiện nay vắc xin phòng bệnh bạch hầu đã rất phổ biến nhưng trên thế giới vẫn tiếp tục ghi nhận các trường hợp mắc bệnh. Nguyên nhân chính là do việc tiêm phòng vaccin chưa được thực hiện đầy đủ và đúng hạn ở tất cả trẻ em.
Đặc biệt, vắc xin phòng bệnh bạch hầu cần tiêm đúng theo chương trình tiêm chủng cho bé từ 0 - 2 tuổi và tiếp tục tiêm nhắc lại trong những năm sau đó. Tuy nhiên, đa phần người dân chỉ thực hiện tiêm phòng trong 2 năm đầu đời mà không nhắc lại khi lớn lên. Vì vậy, kháng thể trong cơ thể suy giảm, làm tăng cao nguy cơ mắc bệnh.
2. Nguyên nhân gây bệnh bạch hầu
Nguyên nhân gây bệnh bạch hầu là vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae, gồm 4 tuýp: Gravis, Mitis và Intermedius, Belfanti… Hình thể vi khuẩn đa dạng, gram (+), không di động và không sinh nha bào.
Vi khuẩn bạch hầu phát triển nhanh trong môi trường có máu và huyết thanh. Chúng cũng có sức đề kháng cao, phát triển tốt trong môi trường bên ngoài, chịu được khô lạnh. Nếu có lớp chất nhày bao quanh, chúng có thể sống trên bề mặt đồ vật vài ngày, hoặc thậm chí lên đến vài tuần. Cụ thể, chúng tồn tải trong vải đến 30 ngày, trong sữa, nước uống đến 20 ngày…
Vi khuẩn bạch hầu nhạy cảm với các điều kiện lý, hóa. Dưới ánh sáng mặt trời trực tiếp, chúng chỉ tồn tại được vài giờ. Ở nhiệt độ 58 độ C, vi khuẩn bạch hầu sống được 10 phút, ở phenol 1% và cồn 60 độ, chúng chết chỉ sau 1 giờ.
Vi khuẩn bạch hầu (cả 4 tuýp) đều có khả năng tiết ngoại độc tố. Bản chất của ngoại độc tố bạch hầu là một protein có tính kháng nguyên đặc hiệu, không chịu được nhiệt độ và focmol. Chúng gây ức chế tổng hợp protein, dẫn đến hủy hoại mô tại chỗ, tạo nên giả mạc dày bám chặt vùng mũi họng, lưỡi, thanh quản của bệnh nhân. Chính những ngoại độc tố này khi vào hấp thu vào máu sẽ gây nên các biến chứng nguy hiểm ở tim, thận, thần kinh như: viêm cơ tim, tổn thưởng thần kinh, liệt cơ hay tử vong…
Ngoại độc tố được xử lý bằng nhiệt độ và formol sẽ mất độc lực, gọi là giải độc tố (anatoxine), được sử dụng làm vaccin.
3. Hình thức lây lan của bệnh bạch hầu
Bệnh bạch hầu có 3 nguồn lây lan chính:
- Tiếp xúc giọt bắn trong không khí có vi khuẩn: Khi người nhiễm bệnh ho, hắt hơi hoặc khác nhổ, giọt bắn mang theo vi khuẩn bay vào không khí và có thể gây bệnh cho những người xung quanh. Thời kỳ lây bệnh không cố định, khoảng 2 - 4 tuần kể từ ngày người bệnh nhiễm virus bạch hầu. Sau khi sử dụng kháng sinh điều trị khoảng 48h, người bệnh thường không còn lây nhiễm cho những người xung quanh. Ngoài ra, người nhiễm vi khuẩn bạch hầu không có biểu hiện bệnh vẫn có thể lây nhiễm vi khuẩn cho những người xung quanh.
Bệnh bạch hầu lây lan do tiếp xúc giọt bắn trong không khí có vi khuẩn
- Tiếp xúc đồ vật bị nhiễm khuẩn: Việc tiếp xúc với đồ dùng cá nhân của người bệnh sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh do vi khuẩn bạch hầu có thể tồn tại trên bề mặt đồ vật trong nhiều ngày.
- Tiếp xúc với dịch tiết vết thương (vết loét hoặc vết thương hở): Nếu bệnh nhân mắc bệnh bạch hầu da và màng nhầy khác, bệnh có thể lây lan qua tiếp xúc với vết thương, vết loét do nhiễm trùng của người bệnh.
4. Triệu chứng của bệnh bạch hầu
4.1 Thời gian ủ bệnh
Thời gian ủ bệnh bạch hầu thường dao động từ 1 - 10 ngày, phổ biến nhất là từ 2 - 5 ngày kể từ khi tiếp xúc với vi khuẩn gây bệnh. Người bệnh có thể lan truyền vi khuẩn từ cuối thời kỳ ủ bệnh đến thời kỳ khởi phát.
4.2 Triệu chứng bệnh
- Thể bạch hầu mũi: sổ mũi, có mủ nhầy, đôi khi có máu, xuất hiện màng trắng ở vách ngăn mũi. Thể bệnh thường ít nguy hiểm hơn do độc tố vi khuẩn hiếm khi thâm nhập vào máu.
- Thể bạch hầu họng và amidan:
+ Mệt mỏi, đau họng, sốt nhẹ.
+ Sau 2 – 3 ngày xuất hiện hoại tử, tạo thành lớp giả mạc màu trắng ngà hoặc xám, dính chắc vào a-mi-đan, hoặc lan rộng bao phủ vùng hầu họng, nếu bóc ra sẽ chảy máu.
+ Nổi hạch cổ, sưng nề vùng dưới hàm, có thể gây khó thở, đặc biệt là đối với trẻ nhỏ
+ Trường hợp nhiễm độc nặng, bệnh nhân phờ phạc, tái xanh, mạch nhanh, hôn mê và có thể dẫn đến tử vong trong vòng 6 - 10 ngày nếu không được điều trị tích cực.
- Thể bạch hầu thanh quản: Là thể bệnh nặng ở trẻ em. Bệnh nhân có dấu hiệu nhiễm ngoại độc tố, xuất hiện giả mạc tại thanh quản hoặc từ hầu họng lan xuống. Các giả mạc này có thể gây tắc đường thở, dẫn đến suy hô hấp và tử vong. Ngoài ra, ngoại độc tố bạch hầu còn gây ra một số biểu hiện toàn thân khác như nhiễm độc thần kinh, liệt cơ, viêm cơ tim… Tỷ lệ tử vong của thể bệnh này khoảng từ 5% - 10%.
5. Biến chứng nguy hiểm của bệnh bạch hầu
Bệnh bạch hầu là một loại bệnh nguy hiểm, có thể gây ra nhiều biến chứng nặng nề, dẫn đến tử vong.
- Tắc nghẽn đường thở: giả mạc có thể phát triển nhanh, lan xuống đường hô hấp gây ra bít tắc đường hô hấp hoặc chúng có thể rụng xuống, khiến bệnh nhân hít phải và sặc, tắc đường thở.
- Viêm cơ tim: Ngoại độc tố bạch hầu có thể gây tác động mạnh vào cơ tim, dẫn đến viêm cơ tim, suy tim cấp…
- Biến chứng thần kinh: Tổn thương thần kinh, gây liệt cơ, mất cảm giác…
- Nhiễm trùng toàn thân: Vi khuẩn bạch hầu đi vào máu, dẫn đến nhiễm trùng toàn thân , suy đa tạng, sốc nhiễm trùng.
- Tử vong: Nếu không được điều trị kịp thời, các thể bệnh bạch hầu nặng có thể dẫn đến tử vong, đặc biệt là ở trẻ nhỏ hoặc những người có hệ miễn dịch yếu.
Ngoài ra có thể gặp biến chứng trên thận, tuyến thượng thận, gan, phổi…
6. Các biện pháp phòng chống bệnh bạch hầu
6.1 Vệ sinh phòng bệnh
+ Đưa trẻ đi tiêm vaccine phối hợp có thành phần phòng bệnh bạch hầu đầy đủ, đúng theo lịch của chương trình tiêm chủng mở rộng, bao gồm 3 mũi tiêm khi trẻ dưới 1 tuổi và tiêm mũi thứ 4 nhắc khi trẻ 18 tháng tuổi. Tại các địa phương nguy cơ cao, vùng dịch, trẻ 7 tuổi cần tiêm nhắc mũi nhắc lại thứ 5.
+ Giữ vệ sinh cá nhân sạch sẽ (thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi); đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học sạch sẽ, thông thoáng, có đủ ánh sáng.
+ Người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc hoặc tiêm vaccine phòng bệnh theo chỉ định của cơ quan y tế.
Đối với những người tiếp xúc với vi khuẩn bạch hầu
Hình ảnh minh họa
+ Bạch hầu là một bệnh bắt buộc phải khai báo.
+ Tất cả bệnh nhân viêm họng giả mạc nghi bạch hầu cần phải được đưa vào viện, cách ly nghiêm ngặt cho đến khi có kết quả xét nghiệm vi khuẩn âm tính hai lần. Các mẫu bệnh phẩm phải được lấy cách nhau 24 giờ và trong vòng 24 giờ sau khi điều trị kháng sinh.
+ Đối với người lành mang vi khuẩn: Những người tiếp xúc mật thiết với bệnh nhân phải được xét nghiệm vi khuẩn và theo dõi trong vòng 7 ngày. Nếu xét nghiệm vi khuẩn (+) thì họ phải được điều trị kháng sinh và tạm nghỉ việc tại các trường học hoặc cơ sở chế biến thực phẩm cho đến khi có kết quả xét nghiệm vi khuẩn (-).
+ Những người tiếp xúc đã có miễn dịch trước đây (tiêm vắc xin hoặc từng mắc bệnh) thì nên tiêm nhắc lại một liều giải độc tố bạch hầu.
+ Xử lý môi trường: Cần sát trùng tẩy uế các đồ vật có liên quan tới bệnh nhân. Tẩy uế phòng bệnh nhân hàng ngày bằng chloramin B; luộc sôi bát đĩa, đũa, chăn màn, quần áo…; phơi nắng sách, vở, đồ chơi v.v…
6.2 Lịch tiêm chủng vaccine phòng bạch hầu
Tiêm vắc xin là biện pháp hữu hiệu phòng ngừa bệnh bạch hầu
Mũi 1: Tiêm vaccine DPT - VGB - Hib (phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván - viêm gan B - viêm phổi/viêm màng não mủ do Hib) khi trẻ 2 tháng tuổi.
Mũi 2: Tiêm vaccine DPT - VGB - Hib khi trẻ 3 tháng tuổi.
Mũi 3: Tiêm vaccine DPT - VGB - Hib khi trẻ 4 tháng tuổi.
Mũi 4: Tiêm vaccine DPT (phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván) khi trẻ 18 tháng tuổi.
7. Điều trị bệnh bạch hầu như thế nào?
- Người mắc bệnh bạch hầu cần được điều trị tích cực tại cơ sở y tế. Nếu không được xử lý kịp thời, bệnh nhân có thể gặp nhiều biến chứng nguy hiểm về tim mạch, thần kinh, tắc nghẽn đường thở… dẫn đến hôn mê và tử vong.
- Điều trị bệnh bạch hầu thanh quản cần sử dụng kết hợp thuốc kháng độc tố bạch hầu và các thuốc kháng sinh.
+ Thuốc kháng sinh dùng loại bỏ vi khuẩn, giảm lượng độc tố thải ra trong máu, ngăn chặn sự lây lan của vi khuẩn bạch hầu ra ngoài môi trường. Tuy nhiên, kháng sinh không có khả năng trung hòa độc tố và không thể thay thế được kháng độc tố bạch hầu trong điều trị bệnh.
+ Trường hợp có dấu hiệu bít tắc đường hô hấp, các bác sĩ sẽ chỉ định bóc giả mạc để thông đường hô hấp. Có thể cần đặt nội khí quản, mở khí quản và chăm sóc đặc biệt tại phòng ICU.
+ Thuốc kháng độc tố bạch hầu: đây là yếu tố quan trọng trong việc điều trị bệnh bạch hầu. Việc trì hoãn sử dụng thuốc có thể dẫn đến tăng nguy cơ tử vong. Vì vậy cần thực hiện càng sớm càng tốt để tránh biến chứng.
Kháng độc tố bạch hầu có thể gây ra phản ứng phản vệ, sốt cấp tính, bệnh huyết thanh. Vì vậy, cần thận trọng khi dùng thuốc kháng độc tố bạch hầu cho những người có tiền sử dị ứng hoặc có biểu hiện mẫn cảm.
8. Chế độ chăm sóc và dinh dưỡng dành cho người mắc bệnh bạch hầu
- Bệnh nhân thường có đau họng, khó nuốt, nên sử dụng các thức ăn lỏng, mềm, dễ tiêu hóa.
- Cách ly: Cần cách ly theo hướng dẫn của Bộ Y Tế để hạn chế lây lan bệnh
- Giữ gìn vệ sinh: Giữ gìn vệ sinh cho bệnh nhân, người chăm sóc. Rửa tay bằng xà phòng thường xuyên, trước khi nấu ăn…
- Tiêm phòng: Bệnh nhân đã khỏi bệnh bạch hầu vẫn cần được tiêm phòng để tránh nguy cơ tái nhiễm. Những người tiếp xúc gần gũi với bệnh nhân cũng nên tiêm một liều vaccine tăng cường.
- Nghỉ ngơi đầy đủ: Hạn chế làm việc nặng quá sức, cần nghỉ ngơi đầy đủ để đảm bảo hồi phục.